RSS

Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo

01 Th8

1. Khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo

Quyền con người là vấn đề luôn được các quốc gia trên thế giới quan tâm. Để đảm bảo quyền con người trong xã hội nói chung, các bản Hiến pháp của nước ta đều đã có nhiều điều khoản nhấn mạnh quyền công dân trong đó không thể không kể đến quyền bào chữa và những bảo đảm cần thiết để quyền đó được thực hiện. Việc Hiến pháp ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị cáo càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của chế định này. Điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) nước ta cũng quy định và ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị cáo nhằm không để bất kì người nào có thể bị hạn chế hay tước quyền cơ bản mà pháp luật đã dành cho họ.

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là một trong những chế định quan trọng và phức tạp, vừa mang tính lí luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Từ trước đến nay, quyền bào chữa đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu song xung quanh khái niệm, nội dung, bản chất chủ thể… của quyền này còn nhiều ý kiến khác nhau. Do vậy, xác định khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trên cơ sở lí luận và thực tiễn phù hợp với quy định của pháp luật là cần thiết nhằm không ngừng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, củng cố cơ sở pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân .

Quyền con người luôn được đề cập trong các đạo luật của mỗi quốc gia. Qua lịch sử đấu tranh, tồn tại và phát triển của loài người, quyền đó vẫn luôn luôn được ghi nhận và bảo đảm. Những nguyên tắc về quyền con người, trong đó có quyền bào chữa luôn được hoàn thiện dần theo thời gian và đã được khẳng định trong các văn bản pháp lí như Đạo luật của Anh năm 1689 về các quyền hoặc Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 đã ghi nhận: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Bản tuyên ngôn nhân quyền của Pháp năm 1791 cũng khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, nhà nước luôn có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những quyền cơ bản đó được nhà nước đảm bảo thực hiện đồng thời công dân cũng có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền lợi của người khác. Một trong các hình thức thực hiện quyền cơ bản của công dân được nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ mình trước cơ quan pháp luật trong đó có quyền bào chữa. Điều 12 BLTTHS quy định: “Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án có nhiệm vụ đảm bảo cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình”. Trong những trường hợp luật định, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan nói trên phải yêu cầu đoàn luật sư cử ngươì bào chữa cho họ. Mặt khác, để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội thì việc bào chữa là cần thiết, nó giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, việc tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự không chỉ có buộc tội mà nó chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi tồn tại song song hai chức năng buộc tội và gỡ tội. Đó cũng là một trong những cơ sở giúp toà án giải quyết vụ án được chính xác.

Đến nay, xung quanh khái niệm bào chữa có nhiều quan điểm khác nhau:

 – Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hoà các hành vi tố tụng hướng tới việc b9i bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm làm giảm trách nhiệm của bị can”.(1)

Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền bào chữa được hiểu rộng hơn, nó không chỉ dừng lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hay làm giảm trách nhiệm của bị can mà nó còn được thể hiện trong cả việc đảm bảo các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm trách nhiệm của bị can trong vụ án.(2)

Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ.(3)

 – Quan điểm thứ tư cho rằng: “Quyền bào chữa trong BLTTHS là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự”.(4)

 – Quan điểm thứ năm cho rằng: “Không chỉ bị cáo mà cả người bị hại cũng cần đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả những người khác cũng vậy, nếu quyền lợi của họ bị xâm hại”.(5)

Luật tố tụng hình sự của các nước khác nhau cũng có những quy định khác nhau về chủ thể của quyền bào chữa. Theo BLTTHS Nhật Bản thì quyền bào chữa thuộc về bị cáo và người bị tình nghi cụ thể là: “Bị cáo hoặc người bị tình nghi có thể lựa chọn luật sư bào chữa bất kì lúc nào” (Điều 30 BLTTHS Nhật bản).

Theo Điều 73 BLTTHS của Bungari, quyền bào chữa là quyền của bị can, bị cáo trong đó quyền bào chữa của bị can được coi là bị hạn chế vì họ chỉ có quyền nhờ người bào chữa trong một số trường hợp cụ thể. Điều 38 BLTTHS của chính quyền Sài Gòn trước đây quy định: “Trong giai đoạn điều tra sơ vấn nghi can bị bắt giữ hoặc bị điều tra phải biết ngay là phạm tội gì và có quyền nhờ luật sư dự kiến”.

Như vậy, khái niệm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự đã được hiểu rất khác nhau và thực tế cũng được quy định khác nhau trong BLTTHS của các nước.

Theo chúng tôi tất cả các quan điểm về quyền bào chữa nói trên đều chưa hoàn toàn chính xác. Nếu cho rằng quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can như quan điểm thứ nhất và thứ hai thì quá hẹp, còn nếu cho rằng quyền bào chữa còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người bị hại, nguyên đơn dân sự… như quan điểm thứ ba, thứ tư và thứ năm thì quá rộng.

Chúng tôi đồng ý với quan điểm của BLTTHS Việt Nam hiện nay là quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can, bị cáo chứ không thuộc về đối tượng nào khác và quyền này chỉ giới hạn trong việc bác bỏ một phần hay toàn bộ lời buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo. Đối với việc bảo vệ các quyền và lợi ích khác của bị can, bị cáo không trực tiếp liên quan tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo trong vụ án thì không thuộc về giới hạn của quyền bào chữa. Tuy nhiên, khi đã bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án thì người bào chữa cũng đồng thời giúp bị can, bị cáo trong việc bảo vệ các quyền đó của họ.

Khác với những người tham gia tố tụng khác, bị can, bị cáo tham gia tố tụng chịu sự buộc tội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc buộc tội này thường gắn liền với việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Việc phải chịu trách nhiệm hình sự mà thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy không phải mọi trường hợp buộc tội đến với bị can, bị cáo đều chính xác mà vẫn còn có những trường hợp buộc tội oan. Do vậy, quyền bào chữa thuộc về bị can, bị cáo là yêu cầu khách quan trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn.

Khác với những người tham gia tố tụng khác, bị can, bị cáo tham gia tố tụng chịu sự buộc tội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc buộc tội này thường gắn liền với việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Việc phải chịu trách nhiệm hình sự mà thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy không phải mọi trường hợp buộc tội đến với bị can, bị cáo đều chính xác mà vẫn còn có những trường hợp buộc tội oan. Do vậy, quyền bào chữa thuộc về bị can, bị cáo là yêu cầu khách quan trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn.

Người bị tạm giữ không thể coi là đối tượng bị buộc tội mà họ chỉ có thể trở thành đối tượng bị buộc tội nếu có đủ căn cứ để khởi tố họ với tư cách là bị can. Một trong những mục đích của tạm giữ là giúp cơ quan có thẩm quyền bước đầu xác định, làm rõ hành vi của người bị tạm giữ, nếu không đủ căn cứ để khởi tố bị can thì phải ra quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ. Theo quy định của pháp luật thì cũng chưa có văn bản tố tụng nào trực tiếp buộc tội đối với người bị tạm giữ.

Người bị kết án cũng không thể coi là đối tượng bị buộc tội được. Không nên đồng nhất hai khái niệm buộc tội và kết án. Buộc tội chỉ có thể tồn tại trước khi bản án của toà án có hiệu lực pháp luật tức là trước khi kết tội. Theo Điều 10 BLTTHS, sau khi bản án kết tội của toà án có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội rõ ràng đã là người có tội, họ không còn là đối tượng được xem xét là có tội hay không nữa.

Như vậy, theo chúng tôi, đối tượng bị buộc tội chỉ có thể là bị can, bị cáo. Bị can bị buộc tội trước hết bởi quyết định khởi tố bị can. Điều 103 BLTTHS quy định: “Khi có đủ căn cứ để xác định một người đ9 thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can”. Khi bị can bị toà án quyết định đưa ra xét xử thì họ trở thành bị cáo. Lúc này bị cáo bị buộc tội bởi quyết định truy tố của viện kiểm sát. Từ sự phân tích trên, theo chúng tôi quyền bào chữa rõ ràng chỉ thuộc về bị can, bị cáo – những người đang bị buộc tội bởi các quyết định pháp lí của cơ quan có thẩm quyền. Những người có thể bị buộc tội hoặc đã bị buộc tội không là chủ thể của quyền bào chữa. Vậy quyền bào chữa của bị can, bị cáo là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ.

2. Thực trạng về việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo

Sau khi BLTTHS có hiệu lực pháp luật, việc tham gia tố tụng của người bào chữa đã góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, giúp cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Mặc dù bước đầu còn có những khó khăn nhất định nhưng việc tham gia tố tụng của họ nói chung đã đáp ứng được yêu cầu bào chữa và đạt kết quả đáng kể. Trong đó có những trường hợp toà án đã xử nhẹ hơn so với mức án đề nghị của viện kiểm sát hoặc tuyên bố bị cáo không phạm tội, đổi tội danh hoặc yêu cầu điều tra bổ sung, đặc biệt có một số trường hợp luận điểm bào chữa không được toà án cấp sơ thẩm chấp nhận nhưng lại được toà án cấp phúc thẩm chấp nhận. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được, hoạt động bào chữa còn có những hạn chế nhất định.

– Thứ nhất: Vai trò của người bào chữa trong thực tế còn hạn chế và trong thực tế nhiều khi chưa được một số cơ quan có thẩm quyền thực sự tôn trọng, chưa tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của mình như việc tham gia tố tụng của người bào chữa sau khi có quyết định khởi tố bị can còn gặp nhiều khó khăn; nhiều trường hợp sau khi ra quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra đã không giao quyết định này và cũng không giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy, bị can không biết là mình có quyền nhờ người bào chữa ngay từ khi bị khởi tố mà họ cứ tưởng khi ra toà mới được mời luật sư.

– Thứ hai: Đối với những trường hợp bào chữa chỉ định vì nhiều lí do khác nhau mà việc bào chữa thường chỉ mang tính hình thức, qua loa, đại khái.

– Thứ ba: Do khoản 2 Điều 36 BLTTHS quy định: “Người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi cung bị can, nếu được điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị can”. Theo quy định này thì việc có cho phép được hỏi bị can hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của điều tra viên, cho nên có trường hợp điều tra viên không cho người bào chữa hỏi mà chỉ cho “ngồi nghe” hỏi cung. Điều tra viên dường như không để ý đến sự có mặt của người bào chữa và ý kiến đề xuất của họ.

Đối với các hoạt động điều tra khác thì hầu như người bào chữa cũng không được tham gia mặc dù có trường hợp họ rất muốn tham gia nhưng đều bị điều tra viên từ chối. Sau khi kết thúc điều tra, hầu hết cơ quan điều tra không thông báo cho người bào chữa biết về việc kết thúc điều tra. Việc này đã làm cho người bào chữa gặp khó khăn trong việc đọc hồ sơ và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra. Thực tế có nơi cán bộ điều tra khuyên bị can thuê luật sư là vô ích vì tội trạng đã rành rành và vụ án đã được quyết định.(6)

– Thứ tư: Vai trò của người bào chữa tại phiên toà xét xử cũng còn nhiều hạn chế nhất định vì nhiều lí do khác nhau. Hội đồng xét xử tin vào các chứng cứ do viện kiểm sát điều tra ra hơn chứng cứ của người bào chữa. Toà án còn coi nhẹ vai trò của người bào chữa như “sự trang trí tại phiên toà”, sự tham gia của họ “chỉ để cho đủ lệ bộ, thủ tục”.

– Thứ năm: Trong hoạt động bào chữa của mình, nhiều luật sư còn thiếu tinh thần trách nhiệm với thân chủ, mặt bằng về trình độ chuyên môn của người bào chữa còn yếu. Vì vậy, có trường hợp viện kiểm sát đề nghị toà án đưa bị cáo vào trường giáo dưỡng thì luật sư lại đề nghị hội đồng xét xử phạt tù cho hưởng án treo. Phải chăng luật sư cho rằng phạt tù được hưởng án treo thì nhẹ hơn đưa vào trường giáo dưỡng?

3. Một số kiến nghị

Qua việc phân tích thực trạng về việc thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo, chúng tôi xin kiến nghị một số vấn đề sau đây:

– Thứ nhất: Khoản 1 Điều 36 BLTTHS quy định: “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can“. Quy định này có thể hiểu theo 2 hướng khác nhau là người bào chữa phải tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can hoặc người bào chữa không bắt buộc phải tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Thực tế thì chúng ta đều thấy rằng người bào chữa không bắt buộc phải tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Do vậy, chúng tôi đề nghị sửa quy định trên là: “Người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can“.

– Thứ hai: Điểm a khoản 2 Điều 36 BLTTHS quy định: “Người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác“. Có thể nói đây là một quy định “tùy nghi“, do vậy, khi áp dụng không thể tránh khỏi những trường hợp điều tra viên lạm dụng quy định này mà không tạo điều kiện cho người bào chữa tham dự việc hỏi cung bị can và các hoạt động điều tra khác. Quy định “… nếu được điều tra viên đồng ý…” e rằng không phù hợp. Bởi lẽ, vấn đề này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí cá nhân của điều tra viên, tức là nó phụ thuộc vào trình độ nhận thức của mỗi điều tra viên. Do vậy, rất có thể cùng một sự việc nhưng điều tra viên này thì đồng ý cho người bào chữa hỏi bị can còn điều tra viên khác thì không đồng ý. Vấn đề này chúng tôi đề nghị cần sửa đổi theo hướng: “Người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi cung bị can; được hỏi bị can và tham gia các hoạt động điều tra khác, nếu điều tra viên không đồng ý thì phải ghi rõ lí do vào biên bản“.

– Thứ ba: Khoản 2 Điều 36 BLTTHS cũng quy định: “… người bào chữa được đọc hồ sơ vụ án và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra“.

Theo chúng tôi, quy định này chưa phù hợp và có phần nào mâu thuẫn với khoản 1 Điều 36 BLTTHS. Theo khoản 1 Điều 36 thì người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác. Do vậy, có thể cho họ đọc hồ sơ từng phần hoặc toàn bộ để họ có thể đưa ra ý kiến bổ sung hồ sơ, giúp điều tra viên làm sáng tỏ các tình tiết của đối tượng chứng minh trong vụ án được nhanh chóng và khách quan. Nếu trong quá trình tham gia các hoạt động điều tra hoặc đọc hồ sơ mà họ làm lộ bí mật điều tra thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Thứ tư: Khoản 2 Điều 37 BLTTHS qui định: “Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc toà án phải yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ: a. Bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại BLHS; b. Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần“.

Đây là trường hợp bào chữa “bắt buộc” nhưng chỉ “bắt buộc” đối với cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án. Do đó, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải lập biên bản ghi rõ ý kiến này và tiến hành tố tụng không cần có sự tham gia của người bào chữa.

Để bảo đảm cho việc quyết định đối với bị can, bị cáo được khách quan và chính xác đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ trong trường hợp bị hạn chế năng lực hành vi, theo chúng tôi không nên đồng nhất trường hợp bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại BLHS (bị can, bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi) với trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần (bị can, bị cáo bị hạn chế năng lực hành vi). Hai trường hợp này cần được quy định phân biệt với nhau chứ không nên qui định như nhau. Cụ thể là nếu bị can, bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi như trường hợp thứ nhất tại khoản 2 Điều 37 BLTTHS thì họ có quyền từ chối người bào chữa nhưng nếu bị can, bị cáo bị hạn chế năng lực hành vi như trường hợp thứ hai tại khoản 2 Điều 37 BLTTHS thì họ lại không có quyền từ chối người bào chữa trong bất kì trường hợp nào.

– Thứ năm: Đoạn 1 Điều 12 BLTTHS quy định: “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa“. Quy định trên theo chúng tôi chưa thể hiện đầy đủ nội dung quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo gồm có hai bộ phận không thể tách rời nhau, đó là “tự bào chữa” và “nhờ người khác bào chữa”. Hai bộ phận này không thể loại trừ lẫn nhau. Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa đồng thời cũng có cả quyền nhờ người khác bào chữa và ngược lại, bị can, bị cáo đã nhờ người khác bào chữa thì họ vẫn có thể tự bào chữa để bổ sung ý kiến của người bào chữa.

Do vậy, chúng tôi đề nghị thay từ “hoặc” bằng từ ““. Như vậy, nội dung của quy định trên sẽ là: “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa“.

– Thứ sáu: Đoạn 1 Điều 165 BLTTHS quy định: “Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Nếu người bàochữa vắng mặt nhưng có gửi trước bản bào chữa thì tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử“.

Theo chúng tôi, quy định này trong thực tế đã bộc lộ nhiều điểm bất hợp lí như đã phân tích ở phần thực trạng về việc thực hiện nguyên tắc này. Do vậy, chúng tôi đề nghị sửa đổi Điều 165 BLTTHS theo hướng: “Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên toà, nếu người bào chữa vắng mặt thì hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà“.

Thứ bảy: BLTTHS mới chỉ quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa khi bào chữa cho bị can, bị cáo chứ chưa quy định cơ chế để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy, chúng tôi đề nghị bổ sung thêm một khoản trong Điều 36 của BLTTHS như sau: “Trường hợp quyền và nghĩa vụ của người bào chữa không được thực hiện theo quy định của pháp luật mà họ cho là không đúng thì người bào chữa có quyền kiến nghị với thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp hoặc thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng cấp trên trực tiếp. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm trả lời cho người bào chữa“./.

Hoàng Thị Sơn

Theo : Tạp chí Luật học số 05 (2000)

 

Bình luận về bài viết này