RSS

Ngoài tội trộm cắp tài sản, Nguyễn Văn Chung không phạm tội chiếm đoạt tài sản

26 Th7

I. NỘI DUNG VỤ ÁN

Tạp chí Pháp lý (Hội Luật gia Việt Nam) số 3/2002 có đăng bài “Nguyễn Văn Chung phạm một tội hay hai tội?” của tác giả Duy Hoàn. Sau khi đọc và nghiên cứu nội dung vụ án, chúng tôi xin được trao đổi với tác giả và bạn đọc. Để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi xin tóm tắt lại nội dung vụ án như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 11/8/2000, Nguyễn Văn Chung đến khu vực sân vận động Thượng Đình – Thanh Xuân – Hà Nội. Chung vào quán nước trong sân vận động ngồi thì thấy một chiếc quần dài vắt trên ghế nhựa. Chung cũng cởi quần dài của mình ra để gần chiếc quần vắt ở ghế nhựa và vào sân chơi bóng đá. Khoảng 15 phút sau, Chung quay ra lấy chiếc quần vắt trên ghế nhựa (của khách) mang vào nhà vệ sinh lục túi lấy một chiếc ví (trong đó có 30.000 đồng và một chiếc vé gửi xe máy và chìa khóa).

Sau khi có vé gửi xe máy và chìa khóa, Chung vào bãi gửi xe của sân vận động Thượng Đình tìm chiếc xe có số ghi như trên vé, mở khóa điện và dắt xe ra cửa soát vé. Anh Dũng là nhân viên bảo vệ trông giữ xe, kiểm tra thấy vé ghi số đúng số trên xe nên cho Chung dắt xe ra khỏi bãi. Sau khi lấy được xe, Chung mang xe bán cho anh Nguyễn Văn Chung quê ở huyện Yên Phong – Bắc Ninh với giá 3 triệu đồng. Khi giao xe cho anh Chung, Chung có nói là xe đặt bạc không có giấy tờ nhưng anh Chung vẫn mua.

Ngày 10/9/2000, Nguyễn Văn Chung lại đến sân vận động Thượng Đình thì bị phát hiện, bắt giữ. Chiếc xe máy đã bị thu hồi trả cho anh Đỗ Mạnh Hùng.

Với hành vi phạm tội trên của Nguyễn Văn Chung, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân – Hà Nội đã áp dụng khoản 1 Điều 138, khoản 1 Điều 139 BLHS phạt Chung 2 năm tù về tội trộm cắp tài sản, 2 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tổng hợp hình phạt của hai tội là 4 năm tù, tổng hợp với bản án 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thử thách 40 tháng ngày 10/8/2000 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, buộc Chung phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 6 năm tù. Sau khi xét xử sơ thẩm, Chung kháng cáo, án phúc thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ngày 24/4/2001 đã tuyên án y sơ thẩm.

II. QUAN ĐIỂM ĐÁNH GIÁ

Tác giả bài viết trên đưa ra hai quan điểm đánh giá khác nhau về hành vi phạm tội của Nguyễn Văn Chung. Quan điểm thứ nhất tán thành với hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân và Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, có nghĩa Nguyễn Văn Chung phạm hai tội trộm cắp tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Quan điểm khác lại cho rằng Nguyễn Văn Chung chỉ phạm một tội là tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 138 BLHS năm 1999. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này với những lập luận cơ bản dưới đây.

Qua nội dung vụ án cho thấy, Nguyễn Văn Chung đã thực hiện hai hành vi trong cùng một chuỗi hành vi phạm tội theo quan hệ nhân quả diễn ra trong cùng một không gian xác định và nối tiếp nhau về mặt thời gian, cho nên ở đây cần có sự đánh giá chính xác về hai hành vi này xem chúng có thỏa mãn các dấu hiệu trong các cấu thành tội phạm tương ứng hay không. Cụ thể, xem xét hành vi thứ nhất – Chung lợi dụng sơ hở của người khác lén lút chiếm đoạt được số tiền 30.000 đồng, vé gửi xe máy và chìa khóa xe. Để lấy được tài sản, Chung đã thực hiện một cách kín đáo, che mắt người xung quanh cũng như người chủ tài sản bằng hành vi đánh tráo chiếc quần vắt trên ghế nhựa của người khác. Hành vi này thỏa mãn dấu hiệu “lén lút” chiếm đoạt tài sản của người khác trong cấu thành tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS năm 1999). Ngoài ra, dấu hiệu thứ hai trong cấu thành tội trộm cắp tài sản là dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện ở đây Chung đã dịch chuyển được tài sản trộm cắp ra khỏi sự kiểm soát của người chủ tài sản và đem nó (chiếc quần) vào nhà vệ sinh lục túi lấy tài sản, cho nên tội phạm được coi đã hoàn thành.

Đối với hành vi thứ hai – hành vi Chung dùng vé gửi xe và chìa khóa xe (cũng lấy được trong ví của người bị hại) vào bãi gửi xe của sân vận động Thượng Đình đưa xe ra cổng soát vé rồi đưa xe máy đi tiêu thụ. Xem xét hành vi này cho thấy nó không thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi lẽ, trở lại sự việc khi anh Hùng chủ xe gửi xe vào bải xe sân vận động Thượng Đình thì một hợp đồng gửi giữ đơn giản đã được xác lập, vé xe là bằng chứng cho sự giao kết hợp đồng giữa anh và người giữ xe. Tuy nhiên, do đây là một hợp đồng gửi giữ đơn giản nên thực tế không xác định chính xác người phải thanh toán hợp đồng đó, có thể là chủ xe, có thể là người được chủ sở hữu giao xe v.v…. Ví dụ: A gửi xe của mình vào một bãi gửi xe nào đó rồi sau đó A đưa vé cho B nhờ lấy xe hộ. B vào lấy xe thì khi đó hành vi trả vé, trả tiền và dắt xe của B ra khỏi bãi gửi xe không thể coi là hành vi lừa đảo người giữ xe được. Bởi vì, mỗi ngày người giữ xe nhận giữ rất nhiều xe, làm sao họ có thể nhớ được hết người này là chủ chiếc xe này, người kia là chủ chiếc xe kia để có thể trả lại chiếc xe cho chính chủ sở hữu của nó. Trong trường hợp đó, người trông giữ xe chỉ biết nhận lại vé, thu lệ phí gửi giữ, kiểm tra số ghi trên chiếc xe có đúng với số ghi trên vé và xem có đúng là loại vé do mình phát hành hay không. Đối chiếu với nội dung vụ án cho thấy anh Dũng là người giữ xe nhận thực hiện hợp đồng gửi giữ xe với anh Hùng và anh đã căn cứ vào vé giữ xe thật để trả xe cho khách. Như vậy, hành vi thứ hai của Chung – hành vi dùng vé gửi xe và chìa khóa xe vào bãi gửi xe, đưa xe ra cổng soát vé rồi đưa xe đi tiêu thụ cũng thỏa mãn dấu hiệu lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác trong cấu thành tội trộm cắp tài sản. Dấu hiệu lén lút ở đây cần được hiểu là hình thức không cho phép người chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra, đồng thời người phạm tội có thể vẫn thể hiện sự công khai đối với những người khác xung quanh. Trong thời điểm Chung đưa xe máy ra cổng soát vé, người bị hại (anh Hùng) vẫn không hay biết mặc dù Chung vẫn công khai hành vi của mình với người bảo vệ có trách nhiệm soát vé. Ở đây, anh Dũng kiểm tra thấy vé gửi xe và số ghi trên xe trùng nhau nên để cho Chung dắt xe đi. do đó, trường hợp nếu bị cáo lợi dụng sơ hở của người bảo vệ, lén lút đưa xe náy của người bị hại ra ngoài vẫn đủ căn cứ truy tố độc lập về tội trộm cắp tài sản. Chính vì vậy, dấu hiệu lén lút đối với người chủ tài sản là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Như vậy, trong hau hành vi của Chung, nếu tách riêng vẫn đủ dấu hiệu và cơ sở độc lập để truy tố Nguyễn Văn Chung về một tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra, việc thực hiện một chuỗi hành vi phạm tội theo quan hệ nhân quả lại do cùng người tiến hành trong một thời điểm không gian và thời gian gần kề nhau, có quan hệ gắn kết chặt chẽ với nhau. Việc chiếm đoạt chiếc xe gắn máy chỉ diễn ra ngay sau khi Chung phát hiện thấy vé và chìa khóa trong ví người bị hại. Như vậy, chính hành vi thứ nhất – hành vi đánh tráo quần của người khác, lục ví lấy tiền, thấy có vé xe và chìa khóa xe là tiền đề phát sinh hành vi thứ hai – dùng vé gửi xe và chìa khóa xe (cũng lấy được trong ví của người bị hại) vào bãi gửi xe củasân vận động Thượng Đình đưa xe ra cổng soát vé rồi đưa xe máy đi tiêu thụ. Cho nên, ở đây chúng ta không thể tách rời hành vi lấy ví và lấy xe để buộc bị cáo Chung về hai tội độc lập.

Mặt khác, phân tích các dấu hiện trong cấu thành tội phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS năm 1999) cho thấy dấu hiệu đặc trưng của tội phạm này là người phạm tội có hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản bằng cách người chủ tài sản tự nguyện trao tài sản. Theo đó, gian dối cần được hiểu là hành vi tạo thông tin giả nhằm đánh lừa người khác, hoặc thực hiện các thủ đoạn khác nhằm mục đích tạo lòng tin của người bị hại đối với người phạm tội về sự việc, thông tin không đúng sự thật nhằm cho người khác tin là sự thật để chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn rất đa dạng và khác nhau, có thể bằng lời nói, cử chỉ, sử dụng giấy tờ giả v.v… Tuy nhiên, ở đây Chung dùng vé xe lấy được trong ví của người bị hại, vé lại do Ban quản lý sân vận động Thượng Đình phát hành để đưa xe ra cổng soát vé, được nhân viên bảo vệ kiểm tra rồi mới đưa xe ra ngoài tiêu thụ là hoàn toàn công khai đối với bảo vệ và những người khác, bị cáo không hề có bất kỳ hành vi hay thủ đoạn gian dối nào. Hành vi này không thỏa mãn dấu hiệu hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên không đủ cơ sở truy tố Chung theo tội danh đó. Chỉ trong trường hợp Chung dùng các thủ đoạn gian dối như” làm vé giả để đánh lừa nhận viên bảo vệ, thay đổi xe, ghi lại số phiếu trên yên xe, đánh tráo biển số v.v… nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì khi đó, Chung mới phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tội phạm là thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan. Không thể có hành vi trong mặt khách quan lại tồn tại độc lập với suy nghĩ, mong muốn trong mặt chủ quan của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Ở đây, hành vi khách quan là hành vi trộm cắp tài sản, hoàn toàn thống nhất với ý định trộm cắp tài sản. Khi thực hiện hành vi phạm tội, Chung không hề nghĩ đến việc lừa đảo. Mục đích phạm tội của Chung là chiếm đoạt tiền và xe mà người chủ tài sản không hay biết. Như vậy, ngay từ trong ý nghĩ Chung đã không có ý định lừa đảo, kể cả đối với người giữ xe (anh Dũng). Ý thức chủ quan của Chung là nhằm che dấu tính chất phi pháp của hành vi chứ bị cáo không che dấu hành vi thực tế. Biểu hiện ở đây Chung đã cố ý lén lút với chủ tài sản (không để cho anh Hùng chủ xe nhìn thấy là mình dắt xe ra khỏi bãi giữ xe), nhưng vẫn công khai với những người khác (ở đây là người giữ xe và những người khác) nhằm chiếm đoạt tài sản.

Tóm lại, qua những phân tích ở trên, theo quan điểm của chúng tôi ngoài tội trộm cắp tài sản, Nguyễn Văn Chung không phạm thêm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi lẽ, việc định tội đòi hỏi phải có sự trùng hợp giữa các tình tiết thực tế của hành vi đã xảy ra với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm tương ứng được nêu ra trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Có như vậy mới đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

Trịnh Tiến Việt

Theo : Tạp chí Khoa học pháp lý số 02 (2003)

 
1 bình luận

Posted by trên 26.07.2011 in Luật Hình Sự

 

1 responses to “Ngoài tội trộm cắp tài sản, Nguyễn Văn Chung không phạm tội chiếm đoạt tài sản

  1. Gio Mua Dong Bac

    26.07.2011 at 11:11 chiều

    có dấu hiệu phạm tội lén lút và 4 yếu tố cấu thành tội phạm trộm cắp tài sản mà. Tôi cũng nghĩ là chỉ phạt 1 tội trộm cắp tài sản thôi.

     

Bình luận về bài viết này