RSS

Chứng cứ luật sư thu thập thường bị xem nhẹ

Thực tiễn xét xử án hình sự, chỉ những chứng cứ về các tình tiết giảm nhẹ có xác nhận đầy đủ thì tòa mới chấp nhận, còn các chứng cứ liên quan đến việc định tội, định khung hình phạt mà luật sư đưa ra thường bị tòa xem nhẹ, vì sao?

Mới đây, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM đã bác yêu cầu hủy án để điều tra xác định lại độ tuổi của một bị cáo trong vụ án giết người. Theo tòa, yêu cầu hủy án của luật sư là “không có căn cứ”.

Bỏ công bỏ sức thành công cốc

Sau phiên xử, vị luật sư lắc đầu thở dài cho công sức bỏ ra thu thập chứng cứ không được xem xét, đánh giá một cách nghiêm túc, đầy đủ. Ông kể khi bắt đầu tham gia vụ án, ông đã nhiều lần bỏ công về quê của bị cáo tìm hiểu và được biết đây là trường hợp khai sinh muộn sau hai năm. Ông đã thu thập nhiều giấy tờ pháp lý liên quan cùng lời khai của nhiều nhân chứng để chứng minh về khả năng bị cáo chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, tòa đã bác yêu cầu của ông mà lại không phân tích vì sao không chấp nhận chứng cứ ông đưa ra để chứng minh cho yêu cầu trên.

Vụ khác, tại phiên xử một nghi án giết người ở TAND huyện Bến Cát (Bình Dương) hồi đầu năm 2011, luật sư của phía nạn nhân đã đưa ra nhiều tài liệu mà ông thu thập được chứng minh rằng bị cáo sử dụng bằng lái xe máy giả để nộp cho công an sau khi xảy ra án mạng. Từ đó, luật sư đề nghị tòa khởi tố bị cáo thêm hành vi mua, sử dụng giấy phép lái xe giả. Trong phần thẩm vấn, bị cáo cũng thừa nhận rằng bằng lái đã nộp cho cơ quan điều tra là giả mạo. Tuy nhiên, khi tuyên án, tòa lại không chấp nhận đề nghị của vị luật sư vì “không có cơ sở xem xét”.

Thiếu cơ chế đảm bảo

“Không có căn cứ”, “không có cơ sở xem xét” là kết luận quen thuộc của các tòa mỗi khi bác yêu cầu của luật sư hay người tham gia tố tụng. Vấn đề là tại sao lại như vậy, vì sao không chấp nhận chứng cứ luật sư trình bày… thì rất ít tòa nào chỉ ra được để các luật sư tâm phục, khẩu phục.

Read the rest of this entry »

 

Bị can, bị cáo có quyền yêu cầu giám định?

Ngày 29-5, Quốc hội đã nghe báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Giám định tư pháp và thảo luận tại hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau…

Vấn đề được nhiều đại biểu (ĐB) quan tâm là có nên bỏ giám định viên pháp y tại phòng kỹ thuật hình sự của công an cấp tỉnh hay không? Hoặc nếu giữ lại thì nên chăng chỉ để lực lượng này thực hiện công việc giám định tử thi mà thôi?

Quy về một mối thuộc ngành y tế?

Theo ĐB Trương Thị Yến Linh (Cà Mau), hầu hết ở các nước trên thế giới, pháp y đều do Bộ Y tế, Bộ Tư pháp hoặc các trường ĐH quản lý chứ không hề có pháp y thuộc ngành công an. Bà Linh lý giải: “Việc áp dụng một quy trình khép kín từ trưng cầu giám định đến khâu khám nghiệm tử thi, khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai do một cơ quan chỉ đạo thì dù khách quan, dù khoa học đến đâu chăng nữa, người ngoài cuộc vẫn nghi ngờ, niềm tin cũng không trọn vẹn. Nhất là các vụ chết người xảy ra đột ngột trong nhà tù, nơi tạm giam, tạm giữ hoặc khi truy bắt, trên đường dẫn giải. Những kết luận về nguyên nhân tử vong lại chính do cơ quan giam giữ, dẫn giải đưa ra thì dư luận khó đồng tình. Để tránh tình trạng oan, sai, tạo niềm tin trong việc giải quyết các vụ án thì nên để cơ quan giám định quy về một mối là cơ quan y tế”.

Đồng tình, ĐB Vũ Thị Nguyệt (Hưng Yên) cho rằng việc đưa pháp y về ngành y tế rất cần thiết. “Tôi cho rằng việc phối hợp giữa hai ngành công an và ngành y tế hoàn toàn có thể thực hiện tốt được khi chúng ta có một lộ trình chuyển giao cụ thể. Hiện nay y tế là ngành có chế độ trực 24/24 giờ đảm bảo xử lý mọi tình huống cấp cứu khẩn cấp, hoàn toàn có thể đáp ứng kịp thời các yêu cầu của bên công an” – bà Nguyệt khẳng định

Theo ĐB Nguyễn Thu Anh (Lâm Đồng), để kết luận được chính xác, ngoài việc sử dụng kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn, trong quá trình thực hiện giám định, giám định viên rất cần sự trợ giúp của các thiết bị, phương tiện kỹ thuật chuyên ngành. Do đó, nếu tập trung giám định viên pháp y tại trung tâm pháp y cấp tỉnh thuộc ngành y tế quản lý thì việc đầu tư phát triển theo hướng chuyên trách, chính quy, hiện đại sẽ tập trung và hiệu quả hơn rất nhiều.

Read the rest of this entry »

 

Có được cộng dồn thiệt hại trong án hình sự?

Một khi chưa có hướng dẫn và cách hiểu luật còn chưa rõ, còn gây tranh cãi thì nên vận dụng nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo.

Nhiều lần cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế nhưng mỗi lần chỉ gây thiệt hại dưới 100 triệu đồng thì cơ quan tố tụng có được cộng dồn để khởi tố người vi phạm? Luật không quy định, hướng dẫn cũng chưa có nên đã gây tranh cãi…

Ngày 7-5, VKSND tỉnh Phú Yên đã hoàn tất cáo trạng truy tố nguyên hiệu trưởng Trường Cao đẳng Nghề Phú Yên Phan Văn Kích, nguyên hiệu phó Nguyễn Hồng Phong và nguyên trưởng phòng Kế hoạch – Tài vụ Hồ Thị Bích Hà về tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.

Bắt tay gây thiệt hại hơn 700 triệu đồng?

Theo cáo trạng, từ năm 2002 đến tháng 7-2011, ba bị can Kích, Phong và Hà đã lợi dụng chức vụ quyền hạn được giao, thống nhất lập khống chứng từ đưa vào thanh toán, thu các khoản thu của trường rồi bỏ ngoài sổ sách, sử dụng chi tiêu sai nguyên tắc gây thiệt hại hơn 700 triệu đồng. Trong đó, bị can Kích gây thiệt hại hơn 700 triệu đồng, bị can Phong liên đới gây thiệt hại hơn 300 triệu đồng và bị can Hà liên đới gây thiệt hại gần 600 triệu đồng.

Trong vụ án này, VKS xác định các bị can đã có hành vi cố ý làm trái các quy định của Nhà nước trong thời gian hơn tám năm (2002-2011). Trong đó, VKS cộng dồn cả những hành vi làm trái riêng lẻ, thời gian thực hiện cách xa nhau với thiệt hại dưới 100 triệu đồng (mức định lượng tối thiểu để xử lý hình sự tội cố ý làm trái… trong trường hợp thông thường). Tính đến trước ngày khởi tố vụ án, các bị can đều không có tiền án, tiền sự, chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi cố ý làm trái lần nào.

Cộng dồn thiệt hại được không?

Từ vụ án này nổi lên một vấn đề pháp lý: Theo Bộ luật Hình sự (BLHS), việc cộng dồn thiệt hại từ những hành vi làm trái riêng lẻ trong một thời gian dài để truy cứu trách nhiệm người vi phạm theo Điều 165 có được hay không?

Read the rest of this entry »

 
2 bình luận

Posted by trên 29.05.2012 in Luật Hình Sự

 

Rửa tiền, vì sao khó khởi tố?

Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã quy định thêm một tội mới là tội rửa tiền để phù hợp với công ước quốc tế. Tuy nhiên, đến nay các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa xử lý hình sự được một vụ rửa tiền nào, vì sao?

Tội rửa tiền là một tội mới được quy định trong BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Điều 251) thay cho tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có. Theo quy định, người nào thực hiện một trong các hành vi sau thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm: Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác liên quan đến tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản đó; sử dụng tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác…

Thiếu hướng dẫn về tội phạm

Thực tế từ đó đến nay, các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa xử lý hình sự được một vụ rửa tiền nào dù vẫn triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm có tổ chức, nhiều đường dây buôn lậu, buôn bán ma túy… Qua các vụ phạm tội này, cơ quan chức năng cũng phát hiện ra nhiều tiền, tài sản mà người phạm tội đã hợp pháp hóa thông qua việc thành lập công ty, kinh doanh bất động sản, chứng khoán…

Theo các chuyên gia, có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc này mà đáng chú ý nhất là việc thiếu hướng dẫn.

Trước hết là về mặt khái niệm. Pháp luật nước ta chưa giải thích rõ ràng, đầy đủ về các hành vi rửa tiền. Trong khi đó, theo Công ước Palermo năm 2000 của Liên Hiệp Quốc, các quốc gia phải hình sự hóa bốn nhóm hành vi rửa tiền: Nhóm hành vi chuyển đổi, chuyển nhượng tài sản biết rõ là phạm tội mà có với mục đích che giấu hoặc ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản… Nhóm hành vi che giấu hoặc ngụy trang bất cứ khía cạnh thông tin nào về tài sản biết rằng do phạm tội mà có. Nhóm hành vi nhận, sở hữu, sử dụng tài sản mà vào thời điểm nhận biết rằng do tội phạm mà có. Nhóm hành vi tham gia, phối hợp hay thông đồng, âm mưu, hỗ trợ, xúi giục, tạo điều kiện và hướng dẫn thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào nói trên.

Read the rest of this entry »

 

Góp ý sửa đổi Luật Luật sư: Hạn chế miễn thời gian đào tạo nghề

Một điều tra viên có thể giỏi trong điều tra hình sự nhưng các lĩnh vực khác thì làm sao rành rẽ để có thể hành nghề ngay?

Nên miễn thời gian đào tạo nghề luật sư cho những ai? Đối với nghề luật sư, uy tín và đạo đức nghề nghiệp có vai trò như thế nào? Đó là những vấn đề gây chú ý tại hội thảo góp ý sửa đổi Luật Luật sư do Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM vừa tổ chức.

Theo dự thảo sửa đổi Luật Luật sư, ngoài những người từng là cán bộ tư pháp như thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, rất nhiều đối tượng khác cũng được miễn thời gian đào tạo nghề như chấp hành viên, thừa phát lại, thanh tra viên chính, chuyên viên chính… làm trong lĩnh vực pháp luật từ năm năm trở lên, sĩ quan quân đội công tác trong lĩnh vực pháp luật từ 15 năm trở lên…

Không nên miễn tràn lan

Theo Thẩm phán Vũ Phi Long (Phó Chánh tòa Hình sự TAND TP.HCM), việc liệt kê đối tượng được miễn thời gian đào tạo nghề như dự thảo là quá nhiều và mang tính… “mặt trận”. Giới luật sư đều muốn vị thế của mình được nâng cao, địa vị pháp lý được coi trọng thì bắt buộc họ phải khẳng định mình bằng việc đào tạo cơ bản. Tại sao khi họ muốn làm các chức danh tư pháp khác thì phải đào tạo khó khăn mà trở thành luật sư lại thông thoáng thế? Chưa kể nếu bị lạm dụng thì việc trở thành luật sư sẽ quá dễ dàng.

Từ đó, ông Long đề xuất phải siết chặt lại việc miễn thời gian đào tạo nghề luật sư. Chẳng hạn như điều tra viên, dù họ được đào tạo chuyên sâu để điều tra hình sự nhưng các lĩnh vực khác như chứng khoán, dân sự… thì làm sao họ rành rẽ? Hoặc như thẩm phán, kiểm sát viên buộc phải nghỉ việc vì cơ quan kỷ luật do vi phạm pháp luật (nhưng chưa đến mức xử lý hình sự) thì ưu tiên miễn thời gian đào tạo nghề và nhận họ làm luật sư ngay rõ ràng là không ổn.

Read the rest of this entry »

 

Luật sư tham gia tố tụng: Không cần cấp giấy?

Bản thân giấy chứng nhận bào chữa không có ý nghĩa gì nếu Hiến pháp đã xác định quyền được bào chữa của công dân là một trong các quyền cơ bản.

Ngày 10-5, tại hội thảo góp ý sửa đổi Luật Luật sư do Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM tổ chức, nhiều ý kiến đã đề nghị bỏ hẳn quy định cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư. Mặt khác, thời gian đào tạo học chứng chỉ hành nghề nên rút ngắn hơn hoặc bỏ hẳn…

Theo dự thảo sửa đổi, việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư được rút ngắn từ ba ngày xuống còn một ngày. Nhiều ý kiến cho rằng nên bỏ luôn chứ rút ngắn thời gian cũng không giải quyết được vấn đề gì.

Chỉ cần bị can đồng ý?

Về thực trạng cấp giấy chứng nhận bào chữa hiện nay, luật sư Phan Trung Hoài (đại diện Liên đoàn Luật sư Việt Nam) nhận xét: “Rất phức tạp! Rất nhiều luật sư kêu ca bị làm khó bởi sau khi được thân nhân bị can nhờ, họ đến đề nghị cấp giấy thì cơ quan điều tra hẹn tới hẹn lui hoặc từ chối thẳng “Luật sư cứ về đi, bị can nói chưa cần luật sư”… Việc từ chối này rất mơ hồ bởi chỉ thông qua lời của điều tra viên, luật sư không được gặp trực tiếp bị can nên không thể biết ý chí thật của họ ra sao”.

Theo luật sư Hoài nên bỏ luôn quy định về việc cấp giấy chứng nhận bào chữa trong tố tụng hình sự. Luật sư Hoài nhấn mạnh: “Không có lý gì khi luật sư thực hiện quyền bào chữa của công dân được Hiến pháp quy định mà lại phải đi xin xỏ các cơ quan tố tụng. Vô lý quá! Ở các nước khác không hề có thủ tục cấp giấy như chúng ta”.

Kiểm sát viên Trần Ngọc Lãm (Viện Phúc thẩm 3 VKSND Tối cao tại TP.HCM) cũng cho rằng bản thân giấy chứng nhận bào chữa không có ý nghĩa gì nếu Hiến pháp đã xác định quyền được bào chữa của công dân là một trong các quyền cơ bản. Việc bản thân người dân tự bào chữa hay nhờ luật sư chỉ là hình thức thể hiện, còn luật sư bào chữa tốt hay không thì tùy thân chủ đánh giá. Do đó khi luật sư được nhờ thì chỉ cần có ý kiến của bị can là xong, không cần phải cơ quan tố tụng cấp giấy mới được bào chữa. Thực tế xét xử cho thấy việc cấp giấy chứng nhận rườm rà, ảnh hưởng đến quá trình xét xử. Đã có những phiên xử phải hoãn chỉ vì lý do lãng xẹt là chờ luật sư được tòa cấp giấy cho đúng thủ tục…

Read the rest of this entry »

 

Phương hướng hoàn thiện các quy định của bộ luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự

Xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Toà án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo Luật tổ chức Toà án nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm ở Việt Nam là các Toà án cấp huyện, Toà án cấp tỉnh, Toà án quân sự khu vực, Toà án quân sự cấp quân khu.

Theo pháp luật tố tụng Việt Nam hiện hành, thì xét xử sơ thẩm được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một cách công khai tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận, chất vấn những điều mà tại Cơ quan điều tra họ không có điều kiện thực hiện. Xét xử sơ thẩm được coi như là đỉnh cao cửa quyền tư pháp, tại phiên toà quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất; những lo âu của bị cáo, người bị hại và của những người tham gia tố tụng khác được giải toả tại phiên toà. Tâm lý nói chung đối với những người tham gia tố tụng là mong muốn vụ án nhanh được đưa ra xét xử để họ biết được Toà án sẽ phán quyết như thế nào.

Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ, xử lý các tình huống một cách mau lẹ, các lý lẽ đưa ra không chỉ đòi hỏi sự chính xác mà phải có sức thuyết phục, nhưng đồng thời lại phải tuân theo những quy định của pháp luật. Thông qua phiên toà có thể đánh giá được trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán, của Hội thẩm, của Kiểm sát viên, của Luật sư và những người tham gia tố tụng tố tụng khác. Cũng thông qua phiên toà mà Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Luật sư nâng cao được trình độ nghiệp vụ năng lực công tác và kỹ năng nghề nghiệp; thông qua phiên toà, những người dự phiên toà hiểu biết thêm về pháp luật, củng cố thêm lòng tin vào Toà án. Vì vậy, việc tổ chức phiên toà sơ thẩm tốt có tác dụng to lớn không chỉ đối với một vụ án cụ thể mà còn có tác dụng đối với việc nâng cao ý thức pháp luật cho mọi công dân.

Read the rest of this entry »

 

Vấn đề định tội trong trường hợp: “Lợi dụng chức vụ quyền hạn” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự – Một số vấn đề cần trao đổi.

Điểm d khoản 2 Điều 139 Bộ luật Hình sự (BLHS) – Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, quy định về tình tiết định khung “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức”. Về tình tiết “Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức” đã được làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn trong áp dụng luật Hình sự.

Đối với tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn”, trong áp dụng pháp luật còn có một số điểm vướng mắc nhất định, cần thiết phải nghiên cứu, trao đổi làm sáng tỏ để nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật Hình sự trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một tình tiết mới được quy định trong BLHS năm 1999. Theo Từ điển tiếng Việt thì “Lợi dụng” là một động từ gồm hai nghĩa: một là, dùng vào việc gì có ích; hai là, thừa dịp mưu ích riêng cho mình. Trong trường hợp này chúng ta nên hiểu theo nghĩa thứ hai và nếu phát triển theo ngữ nghĩa ấy thì tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” trong luật Hình sự được hiểu là dựa vào phần việc phải làm theo chức vụ, quyền hạn để mưu lợi ích riêng cho cá nhân. Nghĩa là dựa vào quyền năng (quyền hành) do chức vụ, quyền hạn mang lại để thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, trong trường hợp này chức vụ, quyền hạn đã được người phạm tội sử dụng như một phương tiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm. Biểu hiện cụ thể của trường hợp này là người phạm tội đã sử dụng quyền năng của mình vào việc thực hiện hành vi gian dối,làm cho người khác tin nhầm tưởng giả là thật mà trao tài sản để chiếm đoạt. Nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139 – BLHS năm 1999, chúng ta nhận thấy rằng, về mặt lập pháp tội phạm này đã được xây dựng dựa trên cơ sở ba điều luật của BLHS năm 1985 đó là: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa (XHCN) (Điều 134); Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản XHCN (Điều 134 a) và Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân (Điều 157). Trong BLHS năm 1985 tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được nhà làm luật xây dựng cấu thành một tội phạm độc lập, đó là tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản công dân (Điều 156). Do vậy, trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi gian dối (lừa đảo) để chiếm đoạt tài sản và tài sản đó là tài sản của công dân và trong khi thực hiện tội phạm có tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì họ bị xử lý về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản công dân theo Điều 156 của BLHS 1985. Trong nhiều giáo trình, sách tham khảo luật Hình sự đã mô tả hành vi khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản công dân là hành vi chiếm đoạt tài sản của công dân bằng thủ đoạn lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Biểu hiện Read the rest of this entry »

 
2 bình luận

Posted by trên 14.05.2012 in Luật Hình Sự

 

Rút yêu cầu khởi tố: Vẫn cần phải hướng dẫn

Cần phải hướng dẫn đối với việc rút yêu cầu khởi tố đối với một hay hai bị can trong vụ án có nhiều bị can, hướng dẫn với việc rút yêu cầu tại phiên tòa…

Điều 105 BLTTHS chỉ quy định “khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại” nhưng thực tiễn xét xử có nhiều vụ án không chỉ có một bị can, mà có nhiều bị can như báo Pháp Luật TP.HCM ngày 5-4 và ngày 3-5 nêu. Ngoài ra còn có trường hợp vụ án tuy chỉ có một bị can nhưng lại có nhiều người bị hại; có người yêu cầu khởi tố, có người không yêu cầu thì giải quyết thế nào cũng là vấn đề vướng mắc.

Cho phép đình chỉ với từng bị can

Đối với trường hợp vụ án có nhiều bị can mà chỉ có một người bị hại; trước khi xét xử người bị hại làm đơn rút yêu cầu khởi tố vụ án đối với một bị can trong số nhiều bị can thì tòa án có được đình chỉ vụ án đối với bị can mà người bị hại có đơn rút yêu cầu khởi tố không? Có ý kiến cho rằng điều luật không nói rõ rút yêu cầu khởi tố vụ án hay rút yêu cầu khởi tố bị can nên trường hợp người bị hại làm đơn rút yêu cầu khởi tố cho một bị can thì việc rút yêu cầu này không thuộc trường hợp rút yêu cầu khởi tố theo khoản 2 Điều 105 BLTTHS; vụ án phải tiếp tục được truy tố, xét xử; việc rút yêu cầu khởi tố bị can này chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ cho bị can; chỉ khi nào người bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án thì vụ án mới được đình chỉ.

Theo chúng tôi, hiểu như vậy là máy móc, không đúng với quy định của BLTTHS về trường hợp đình chỉ vụ án. Điều 169 và Điều 180 BLTTHS đều quy định: “Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả bị can thì có thể đình chỉ vụ án đối với từng bị can”. Như vậy, về nguyên tắc, pháp luật cho phép đình chỉ vụ án đối với một bị can trong số nhiều bị can trong cùng một vụ án. Điều 169 và 180 BLTTHS không loại trừ trường hợp đối với khoản 2 Điều 105.

Read the rest of this entry »